Để ngành rau quả Việt Nam “vươn ra biển lớn”: Cần giải pháp toàn diện
08/04/2025 6
Để ngành rau quả Việt Nam thực sự “vươn ra biển lớn”, cần một bước chuyển căn cơ, toàn diện với sự vào cuộc mạnh mẽ của của cả khối công và khối tư. Trước hết, cần thúc đẩy sản xuất theo chuỗi giá trị và tăng cường kiểm soát chất lượng từ vùng trồng đến đóng gói, chế biến, và triển khai các chương trình giám sát dư lượng hóa chất nông nghiệp tại các vùng trọng điểm.
Sáng ngày 11/4, tại TP. Đà Lạt, Trung tâm Khuyến nông quốc gia (bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã tổ chức Hội thảo “Nâng cao năng lực tuân thủ, tiêu chuẩn, chất lượng để thúc đẩy xuất khẩu rau quả Việt Nam”.Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ dự án "Tăng cường năng lực và chia sẻ kinh nghiệm các mô hình đối tác công tư (PPP) phát triển nông nghiệp bền vững" do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Đối tác Phát triển bền vững nông nghiệp Việt Nam (PSAV) thực hiện.
Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh phát biểu tại Hội thảo “Nâng cao năng lực tuân thủ, tiêu chuẩn, chất lượng để thúc đẩy xuất khẩu rau quả Việt Nam”.
Xác định thị trường mục tiêu cho mỗi mặt hàng rau quả
Tham luận tại Hội thảo về hiện trạng, thách thức và giải pháp phát triển xuất khẩu rau quả Việt Nam, ông Lê Vũ Ngọc Kiên - Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường cho biết, rau quả xuất khẩu của Việt Nam chiếm thị phần trong tổng số xuất khẩu nông - lâm - thủy sản với tỷ lệ biến động 10% (năm 2019); 8,4% (năm 2020); 7,8% (năm 2021); 6,7% (năm 2022); 11,6% (năm 2023) và 12,4% (năm 2024). So với năm 2023, giá trị xuất khẩu năm 2024 tăng 43,5% sầu riêng, 60,7% dừa, 48,3% xoài, 20% chuối, 19,6% chuối; giảm 15,1% thanh long…
Thị trường xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ chiếm 58% các mặt hàng sầu riêng, thanh long, bưởi, chanh leo, dứa, xoài; 42% các sản phẩm khác. Thị trường Trung Quốc chiếm 63% sầu riêng, còn lại 37% dưa hấu, dừa, xoài, thanh long, mít, chuối.
Ngoài ra, nhiều loại rau quả Việt Nam còn xuất khẩu sang thị trường các nước Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…
Ông Lê Vũ Ngọc Kiên đề xuất các nhóm giải pháp trong thời gian tới gồm: Xác định thị trường mục tiêu cho mỗi mặt hàng rau quả; nâng cao năng lực cung ứng và chất lượng sản phẩm cho thị trường mục tiêu; tiếp cận kênh phân phối tại các thị trường chính; xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm trái cây lợi thế; tăng cường chế biến, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao công nghệ và năng lực chế biến của ngành rau quả thông qua liên kết, hợp tác PPP...
Bà Hoàng Mai Vân Anh - Điều phối viên chương trình, Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) trình bày tham luận “Nâng cao năng lực tuân thủ tiêu chuẩn, chất lượng của ngành rau quả Việt Nam để thúc đẩy xuất khẩu” với các đề xuất tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng; nâng cao tính tuân thủ, khả năng cạnh tranh và tính bền vững của ngành; thúc đẩy môi trường chính sách thuận lợi và văn hóa cho chất lượng sản phẩm…
Cần tăng cường chế biến, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao công nghệ và năng lực chế biến của ngành rau quả thông qua liên kết, hợp tác PPP.
Đại diện Viện Nghiên cứu Rau quả, ông Lê Như Thịnh chia sẻ các công nghệ và đổi mới đã và đang sử dụng trong sản xuất rau quả như công nghệ nhân giống và nuôi cấy mô thực vật invitro đã tạo ra số lượng lớn cây giống có chất lượng, đồng nhất về mặt di truyền, cũng như có thể phục tráng những giống cây trồng đang bị thoái hóa, sạch bệnh cho sản xuất; việc sử dụng nuôi cấy mô để nhân giống còn mang lại lợi thế tránh thời điểm khô hạn, bão lũ; cây con phát triển có sức chống chịu cao hơn. Đặc biệt, nuôi cấy mô tế bào có thể dùng để cứu sống phôi mầm của một số loài cây khó phát triển và sinh trưởng, giúp bảo vệ các giống cây quý hiếm đang bị đe dọa…
Về trồng trọt, việc chuyển vào tế bào thực vật một gen lạ của vi khuẩn (chẳng hạn gen cố định nitơ, gen kháng thuốc diệt cỏ, gen kháng côn trùng, gen kháng bệnh...) sẽ khiến cho cây trồng có được những phẩm chất đặc biệt. Ngoài ra, ứng dụng hiệu quả công nghệ sấy, chiên trong chế biến rau như sấy bơm nhiệt, sấy thăng hoa, thiết bị chiên chân không liên tục…
Sản xuất rau quả Việt Nam theo chuỗi liên kết phải chuyên nghiệp, hướng đến thị trường quốc tế
Các diễn giả tại Hội thảo chia sẻ các giải pháp chuyển đổi giống sản xuất, xây dựng nhà máy đủ năng lực, phát triển dây chuyền công nghệ hiện đại tại các vùng nguyên liệu trọng điểm, củng cố hạ tầng kho lạnh, xây dựng thương hiệu nông sản thế mạnh trên thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phát huy tính tiên phong, dẫn dắt xây dựng chuỗi liên kết, áp dụng đồng bộ khâu kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm từ vùng nguyên liệu sản xuất đến quy trình kỹ thuật chế biến và hệ thống phân phối đến thị trường…
Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cũng thừa nhận, dù đã hiện diện tại hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng rau quả Việt Nam vẫn đang đối mặt với những rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe từ các thị trường nhập khẩu, đặc biệt là về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật và yêu cầu về tiêu chuẩn lao động, môi trường.
Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh cho rằng, sản xuất rau quả Việt Nam theo chuỗi liên kết phải chuyên nghiệp, hướng đến thị trường quốc tế. Trong đó, việc áp dụng công nghệ trong sản xuất, chế biến rau quả đã và đang thực hành sôi động, hiệu quả, áp dụng từ các viện nghiên cứu, trường, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, trở thành yếu tố quan trong hoạt động khuyến khích đổi mới, sáng tạo, phát triển ngành rau quả xuất khẩu bền vững của Việt Nam…
Hiện nay, chủ yếu các doanh nghiệp, thương nhân nhận biết tiêu chuẩn thị trường xuất khẩu. Bởi vậy, phải tạo điều kiện hơn nữa cho người trực tiếp sản xuất nhận biết đầy đủ, thực hành quy trình thao tác đạt tiêu chuẩn sản phẩm truy xuất nguồn gốc xuất xứ, chất lượng xuất khẩu; kết nối với doanh nghiệp từ đầu vào sản xuất đến bảo quản, chế biến đến hoạt động logistics đưa sản phẩm đến thị trường. Hy vọng vấn đề này tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ trong giai đoạn tới.
Cần tăng cường kiểm soát chất lượng từ vùng trồng đến đóng gói, chế biến, và triển khai các chương trình giám sát dư lượng hóa chất nông nghiệp tại các vùng trọng điểm.
Ông Lê Quốc Thanh nhận định, để ngành rau quả Việt Nam thực sự “vươn ra biển lớn”, cần một bước chuyển căn cơ, toàn diện với sự vào cuộc mạnh mẽ của của cả khối công và khối tư. Trước hết, cần thúc đẩy sản xuất theo chuỗi giá trị, với sự tham gia trách nhiệm của doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân và cơ quan quản lý. Tiếp đó, tăng cường kiểm soát chất lượng từ vùng trồng đến đóng gói, chế biến, và triển khai các chương trình giám sát dư lượng hóa chất nông nghiệp tại các vùng trọng điểm như Tiền Giang, Long An, Đắk Lắk, Lâm Đồng.
Đồng thời, hỗ trợ nông dân chuyển đổi canh tác theo hướng hữu cơ, sinh học, đáp ứng các tiêu chuẩn thị trường. Các sáng kiến hợp tác công – tư chính là nền tảng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chia sẻ nguồn lực và kiến thức, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường bền vững cho rau quả Việt Nam.
Ông Tô Việt Châu - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế ghi nhận tham luận và các diễn giả nhận xét, bình luận bổ ích về kinh nghiệm, giải pháp xuất khẩu rau quả Việt Nam. Đặc biệt, tập trung trao đổi những giải pháp cấp mã số vùng trồng, đem lại lợi ích xuất khẩu bền vững nông sản.
Ông Châu định hướng khuyến khích chuyển đổi số trong sản xuất, xuất khẩu rau quả bền vững trong thời gian tới. Trong đó, tập trung thúc đẩy vận hành đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, hợp tác công tư để mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam ngày càng bền vững…
Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Việt Nam hiện đã sản xuất hơn 120 loại rau có nguồn gốc nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật, sản xuất rau hiện nay có thể duy trì quanh năm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt mức kỷ lục 7,12 tỷ USD, tăng 27,1% so với năm 2023, tăng trung bình 20,1%/năm từ năm 2011 đến nay. Năm 2025, ngành rau củ trong nước hướng đến mục tiêu giá trị xuất khẩu đạt 8 tỷ USD./. |
Trích nguồn: Tạp chí Kinh tế Nông Thôn